NGUỒN GỐC THUỐC NGỪA CÓ TÊN VACCINE

Bác sĩ Edward Jenner người Anh Quốc được coi là người sáng lập vắc-xin ở phương Tây vào năm 1796, sau khi ông lấy mủ từ một vết thương đậu mùa bò để tiêm cho một cậu bé tám tuổi, James Phipps và chứng minh khả năng miễn dịch đối với bệnh đậu mùa. 


Căn bệnh đậu mùa xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại, nhiều tài liệu cho rằng, vào khoảng 12.000 năm trước, tại châu Phi. Đến thế kỷ thứ 6, nó trở thành đại dịch, lan sang châu Âu, châu Á. Vào thế kỷ 18, bệnh đậu mùa được coi là căn bệnh nguy hiểm và gây nhiều tử vong nhất ở người. Thời Trung cổ, trung bình mỗi năm, khoảng 400.000 người châu Âu thiệt mạng vì căn bệnh này. Đậu mùa do virus gây ra nhưng ban đầu người ta nghĩ đây là bệnh nan y không thuốc chữa. 


Năm 1788, một đợt bệnh đậu mùa quét qua Gloucestershire, quê hương của Jenner. Trong đợt bùng phát này, Jenner thấy những bệnh nhân của ông làm việc với gia súc và đã tiếp xúc với bệnh đậu mùa ở bò (triệu chứng nhẹ hơn đậu mùa ở người nhiều, dù cũng làm cho toàn thân con vật nổi mụn nước) bị nhiễm bệnh đậu mùa, có thể nhìn thấy như mụn mủ trên tay hoặc cẳng tay, miễn dịch với những đợt dịch đậu mùa tiếp theo xảy ra ở khu vực.


Jenner tình cờ nghe được câu chuyện về một cô gái làm nghề vắt sữa bò nói rằng cô không thể mắc bệnh đậu mùa đáng sợ do cô đã mắc bệnh khác là bệnh đậu bò (bệnh đầu mùa ở bò). Chính điều này đã gợi lên trong Jenner mong muốn tìm hiểu sâu hơn vấn đề này, dẫn đến khám phá nổi tiếng sau này của ông. Ông luôn trăn trở: "Liệu có thể truyền bệnh đậu bò sang người để phòng được bệnh đậu mùa ở người không? Như thế, người ta sẽ mắc căn bệnh đậu bò không chết nhưng thoát khỏi bệnh đậu mùa chết người". 


Chữ vaccine có nguồn gốc từ "Variolae vaccinae", nghĩa là bệnh đậu mùa của bò trong tiếng La-tinh. Từ này do bác sĩ Edward Jenner đưa ra, để mô tả việc lấy vi trùng từ động vật mắc bệnh và làm cho vi rút yếu sau đó tiêm vào cơ thể người qua đường máu. Theo ông, khi loại vi khuẩn bị suy yếu được tiêm vào người, cơ thể sẽ tự phát sinh ra một yếu tố kháng lại bệnh đó. Vì thế, những người đã được tiêm sẽ không mắc bệnh đậu mùa nữa.


Năm 1796, Jenner đã tiến hành một thí nghiệm ở một cậu bé, sau này ngay cả ở con trai của ông. Jenner đã chiết lấy dịch từ các vết đậu bò trên cánh tay của một cô gái chăn bò rồi cấy vào cánh tay của cậu bé 8 tuổi khỏe mạnh cùng làng tên là James Phipps. Cậu bé bị sốt nhẹ nhưng sau vài ngày đã khỏe lại. 48 ngày sau, Jenner tiêm chất có chứa mầm bệnh đậu mùa vào người cậu. Theo dõi, ông thấy Phipps không hề mắc đậu mùa. 


Sau đó, ông đã hoàn thành công nghệ chế tạo thuốc tiêm chủng với 3 công đoạn.


Bước một: lấy ít vi trùng bệnh đậu mùa trên một con bò mắc bệnh này. Bước hai: làm cho vi trùng yếu đi. Bước ba: tiêm các vi trùng này vào cơ thể người qua đường máu. Ông giải thích rằng những người được tiêm chủng sẽ không mắc bệnh đậu mùa nữa vì máu của họ đã có một yếu tố kháng bệnh.


Năm 1798 sau khi thực hiện các xét nghiệm thành công hơn, ông đã công bố phát hiện của mình. Jenner gọi phương pháp này là "vaccination", chính là nguồn gốc công cuộc tiêm vaccine ở người phổ biến cho đến ngày nay. Năm 1798, phương pháp tiêm chủng của Jenner được nhân rộng ra khắp thế giới. Hai năm sau, chính phủ Anh đã mời ông tiêm cho binh chủng Hải quân hoàng gia. Hoàng đế Napoleon ở Pháp cũng ra lệnh cho toàn bộ binh lính phải tiêm chủng đậu mùa. Mỹ sau đó cũng áp dụng phương pháp này. Năm 1802, Jenner được bầu làm Chủ tịch Ủy ban quốc tế về phòng chống đậu mùa. Ông cũng được nữ hoàng Anh, Nga, hoàng đế Pháp, tổng thống Mỹ trao giải thưởng giá trị và được mời vào làm việc tại Viện Hàn lâm khoa học Pháp.


Bác sĩ Edward Jenner không phải là người đầu tiên trên thế giới khám phá ra cơ chế của vaccine, nhưng khám phá của ông đã đặt nền móng cho lĩnh vực miễn dịch học, đẩy lùi được dịch bệnh đậu mùa, một trong những đại dịch nghiêm trọng của loài người.


Phương pháp "tiêm ngừa" của Jenner xét theo các tiêu chuẩn y đức ngày nay là hoàn toàn sai trái. Nhưng thực tế, nhờ sự liều lĩnh của ông, con người mới thoát đại dịch đậu mùa. 


Trước khi Jenner phát triển phương pháp của mình, trên thế giới đã có nhiều phương pháp “chủng dịch” được coi là man rợ. Ở châu Á, trước phương pháp Jenner nhiều thế kỷ, các nhà tu hành Phật giáo Trung Hoa đã uống nọc độc của rắn để tạo ra khả năng miễn dịch đối với vết rắn cắn. Việc chủng ngừa đậu mùa bằng phương pháp biến thể bằng cách chuyển dịch có kiểm soát mủ từ tổn thương đậu mùa đang hoạt động ở một người sang cánh tay của người khác và thường được tiêm dưới da bằng một cây kim đã được thực hiện ở châu Á từ những năm 1600 và ở châu Âu và châu Mỹ thuộc địa đầu những năm 1700.


Tuy nhiên, bác sĩ Jenner đã áp dụng các phương pháp quan sát và thử nghiệm khoa học, và cuối cùng thực hiện một trong những thử nghiệm lâm sàng đầu tiên trên thế giới. Điểm đặc biệt trong phương pháp mới của Jenner khi chủng ngừa bằng virus đậu bò là không chỉ mang tính hiệu quả mà còn giảm thiểu tác dụng phụ và mang tính an toàn cao hơn.


Năm 1798, vắc-xin đậu mùa đầu tiên được phát triển. Trong thế kỷ 18 và 19, việc thực hiện một cách có hệ thống việc tiêm chủng bệnh đậu mùa hàng loạt đã lên đến đỉnh điểm trong việc xóa sổ toàn cầu vào năm 1979.


Năm 1885, tức gần một thế kỷ sau kỹ thuật phát triển bởi Jenner, nhà sinh học Louis Pasteur tại Paris (Pháp) đã thử nghiệm thứ mà ông gọi là vaccine phòng bệnh dại. Thời đó, "vaccine" hay "vaccination" thường chỉ được hiểu là tiêm virus đậu bò vào người để phòng bệnh đậu mùa. Trên thực tế, Pasteur đã thật sự sản xuất ra loại thuốc kháng độc tố chống bệnh dại dùng như thuốc giải độc khi ai đó mắc bệnh dại. Tuy nhiên, ông đã dùng từ "vaccine" để kéo dài ý nghĩa ra khỏi phạm vi một từ Latin có kết hợp với virus đậu bò.


Từ đó, với những thành tựu và ảnh hưởng toàn cầu trong các công trình vĩ đại của mình, Pasteur đã đưa đến sự mở rộng khái niệm vaccine khỏi nguyên bản. Vaccine từ đó trở thành tên chung của một loạt danh sách các loại thuốc có chứa chất độc sống, giảm độc lực, vi khuẩn hoặc virus đã bị giết thường được tiêm vào cơ thể người để tạo ra khả năng miễn dịch chống lại các loại bệnh truyền nhiễm.


Nghiên cứu đã đạt được những bước tiến lớn trong những năm 1920 và một số loại vắc-xin mới đã được tung ra thị trường: năm 1921 cho bệnh lao, năm 1923 cho bệnh bạch hầu, năm 1926 cho bệnh uốn ván và năm 1926 cho bệnh ho gà.


Ở Việt Nam, bác sĩ Yersin gốc Thuỵ Sĩ và là một học trò của bác sĩ Pasteur, năm 1894, sau nhiều kỳ công nghiên cứu tìm tòi thí nghiệm ông đã tìm ra vi trùng dịch hạch, nghiên cứu bào chế thuốc điều trị và phòng bệnh dịch hạch, sau đó được chính phủ Pháp tặng huân chương Bắc đẩu bội tinh. Trại ngựa nuôi lấy huyết thanh sản xuất vắc xin của ông nằm ở suối Dầu/Nha Trang là trại ngựa thuốc lớn nhất châu Á khi đó.


https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Edward_Jenner; https://www.tagesanzeiger.ch/was-das-impfen-mit-kuehen-zu-tun-hat-591286484501


Hình: Bác sĩ Edward Jenner đang tiêm chủng cho cậu bé Phipps


Nhận xét

Bài đăng phổ biến